GENEVA, 12.3.2015 (VCHR) – Phát biểu tại khoá họp lần thứ 28 của Hội đồng Nhân quyền LHQ trong hai ngày 10 và 11, Báo cáo viên Đặc biệt LHQ về Tư do Tôn giáo hay Tín ngưỡng, ông Heiner Bielefeldt phúc trình chuyến đi sang Việt Nam trong thời gian 21 đến 31 tháng bảy năm ngoái, 2014. Ông nhận xét rằng “đời sống tôn giáo đa dạng và phong phú là một thực tế ở Việt Nam hiện nay”, nhưng ông Bielefeldt cũng chân nhận ra một số “vấn đề nghiêm trọng”, và tuyên bố rằng “phạm vi của quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng vẫn còn rất hạn chế và không an toàn” tại Việt Nam.
Báo cáo viên Đăc biệt LHQ quan tâm đặc biệt về hoàn cảnh của các cộng đồng tôn giáo độc lập — nghĩa là các Giáo hội không được Nhà nước thừa nhận. “Quyền tự chủ và hoạt động của các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng độc lập, tức là, những cộng đồng không được công nhận, vẫn còn bị hạn chế và không an toàn, khi mà các quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của các cộng đồng này bị vi phạm rõ ràng với sự giám sát, đe dọa, sách nhiễu và đàn áp liên tục”. Ông nhấn mạnh rằng những điều kiện tự quản và không đăng ký của các cộng đồng tôn giáo là “một thử nghiệm cho sự phát triển tự do tôn giáo hay tín ngưỡng tại Việt Nam”.
Trong cuộc viếng thăm Việt Nam hồi tháng 7 năm 2014, ông Bielefeldt đã bị bó buộc cắt ngắn chuyến viếng thăm tại các tỉnh An Giang, Gia Lai và Kontum do sự ngăn chận của công an hoặc “được thông tin đáng tin cậy rằng một số cá nhân khác mà ông muốn gặp đã bị giám sát chặt chẽ, cảnh báo, đe dọa, quấy rối hoặc bị công an chặn đi lại”. Ông cũng như người gặp gỡ bị “nhân viên an ninh và công an” không công khai theo dõi chặt chẽ địa điểm của Báo cáo viên Đặc biệt và những người đã gặp gỡ. Trong bản phúc trình, Báo cáo viên Đặc biệt LHQ nói thẳng rằng “ông cảm thấy bị xúc phạm bởi những vụ trả thù, bao gồm việc đe dọa, quấy rối bằng cách thẩm vấn của công an và thậm chí tổn thương về thể xác của những người gặp gỡ ông trong và sau chuyến thăm”. Mọi sự cố như vậy đã “vi phạm rõ ràng các điều khoản tham chiếu của chuyến thăm quốc gia đã được Chính phủ đồng ý trước chuyến thăm”.
Phần phân tích trong khung pháp lý của bản Phúc trình, Báo cáo viên Đặc biệt LHQ nhận xét rằng Hiến pháp năm 2013, Pháp lệnh về tôn giáo hay tín ngưỡng, Nghị định 92 về tôn giáo chứa đựng nhiều điều luật hạn chế vượt khỏi giới hạn quy định trong Điều 18, đoạn 3, của Công ước Quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị. Hơn nữa, nhiều điều luật trong Bộ Luật Hình sự bó buộc quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng phải tuỳ thuộc vào “quyền lợi của Nhà nước” — thường được trích dẫn để bắt giam hay đàn áp những tín đồ tôn giáo. Điều 258 về “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước”. Ông nhận xét “sự diễn đạt mơ hồ trong điều luật 258 cho phép các cơ quan có liên quan toàn quyền hành động để xử phạt tất cả các loại hoạt động”.
Về vấn đề đăng ký, điều chỉnh theo Pháp lệnh 21, nhằm quyết định xem tổ chức tôn giáo nào Nhà nước “công nhận”, tổ chức tôn giáo nào Nhà nước “không thừa nhận”, ông Bielfeldt phát biểu rằng quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng là quyền phổ quát. “Việc thực hiện quyền con người về tự do tôn giáo, tín ngưỡng, bởi các cá nhân và / hoặc trong cộng đồng với những người khác, không thể bị phụ thuộc vào bất kỳ hành vi cụ thể nào để công nhận, cho phép hoặc phê duyệt về mặt hành chính :
“Cần phải thấy rõ rằng quyền của một cá nhân hay một nhóm người cho tới quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng không bao giờ có thể được “tạo ra” bằng bất kỳ thủ tục hành chính nào. Thay vào đó, phải là điều trái lại : Việc đăng ký cần phải phục vụ quyền con người, mà bản thân quyền đó phải được tôn trọng trước bất kỳ sự đăng ký nào. Từ nhận thức cơ bản này, việc đăng ký nên là một đề nghị của Nhà nước chứ không phải là một yêu cầu pháp lý bắt buộc”.
Báo cáo viên Đặc biệt LHQ nêu lên trường hợp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và những nhóm tôn giáo “không được thừa nhận”. Trong bản Phúc trình đoạn thứ 43, ông nhận xét “một thái độ khá thô bạo” của những thành viên thuộc Giáo hội Nhà nước, là Hội Tăng già Phật giáo Việt Nam, đối với các nhóm Phật giáo độc lập mà họ cho là không tuân thủ với “lợi ích của số đông”. Ông Bielefeldt nhấn mạnh rằng “Là một quyền con người, tự do tôn giáo tín ngưỡng là của tất cả mọi người, bất kể họ theo một tôn giáo đa số hoặc thuộc về một cộng đồng thiểu số hoặc không theo cộng đồng tôn giáo nào cả”.
Trong chuyến viếng thăm Việt Nam , ông Bielefeldt đã có cuộc gặp gỡ tại Thanh minh Thiền Viện ở Saigon với Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ, Hoà thượng Thích Như Đạt, Viện trưởng Viện Hoá Đạo, và Cư sĩ Lê Công Cầu, Tổng thư ký Viện Hoá Đạo kiêm Vụ trưởng Gia Đình Phật tử vụ. Báo cáo viên Đặc biệt LHQ nêu lên những luận điệu vi phạm tự do tôn giáo đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, kể cả việc công an theo dõi, bắt bớ và giam cầm tuỳ tiện, quản chế và xâm chiếm tài sản.
Trong phần 7 của bản Phúc trình, ông Bielefeldt đưa ra 20 điều kết luận và khuyến nghị Việt Nam, và 4 điều khuyến nghị Cộng đồng thế giới :
1. “Các điều khoản tham chiếu cho các chuyến thăm quốc gia của Báo cáo viên Đặc biệt bao gồm bảo đảm việc “tiếp xúc bí mật và không bị giám sát với các nhân chứng và các cá nhân khác” và “bảo đảm của Chính phủ rằng không ai trong số những cá nhân đã tiếp xúc chính thức hoặc riêng tư với Báo cáo viên Đặc biệt […] trong mối liên hệ với nhiệm vụ của Báo cáo viên vì lý do này sẽ bị đe dọa, quấy rối hoặc trừng phạt hoặc bị kiện tụng ra tòa án”. Những sự cố đe dọa nghiêm trọng và các trường hợp vi phạm trắng trợn các nguyên tắc bảo mật không may tạo nên một chuyến thăm chưa trọn vẹn tới Việt Nam của Báo cáo viên Đặc biệt.
2. “Sự gián đoạn này là đáng tiếc hơn cả, khi mà Báo cáo viên Đặc biệt đã quan sát thấy một số phát triển tích cực, đặc biệt là ở cấp trung ương. Nhiều đại diện của các cộng đồng tôn giáo đều đồng ý rằng, bất chấp những vấn đề nghiêm trọng đang diễn ra, không gian cho các hoạt động tôn giáo của họ đã gia tăng trong những năm gần đây. Các cộng đồng tôn giáo đã bị cấm sau năm 1975 bây giờ đã được phép hoạt động. Đời sống tôn giáo đa dạng đã trở thành một thực tại hữu hình trong tất cả các bộ phận của đất nước, và các cộng đồng tôn giáo khác nhau cùng tồn tại một cách hòa bình. Hơn nữa, một số đại diện của các cơ quan Chính phủ bày tỏ sự sẵn sàng của họ để xem xét sửa đổi nội dung của Pháp lệnh hiện hành về tín ngưỡng và tôn giáo trong quá trình chuẩn bị một dự thảo luật về các vấn đề này.
3. “Một thử nghiệm cho sự phát triển của tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng ở Việt Nam là điều kiện của các cộng đồng tôn giáo độc lập hoặc chưa được đăng ký. Như đã nêu chi tiết ở trên, việc thực hiện các quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng không thể bị thu hẹp do phụ thuộc vào bất kỳ hành vi phê duyệt hành chính nào ; là một quyền con người phổ quát, quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng vốn có trong tất cả mọi người, trước bất kỳ hành vi đăng ký hoặc công nhận chính thức. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, khả năng đời sống tôn giáo độc lập không an toàn và hạn chế, vi phạm rõ ràng điều 18 của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, mà Việt Nam đã là một thành viên từ năm 1982. Luật về vấn đề tôn giáo, sẽ được thảo luận và có thể được ban hành vào năm 2016, cung cấp một cơ hội để khắc phục tình trạng này.
4. “Trong bối cảnh này, Báo cáo viên Đặc biệt muốn đưa ra các kiến nghị sau đây với Chính phủ Việt Nam :
(a) Chính phủ được khuyến khích mở rộng và củng cố không gian rất hạn chế và không an toàn cho sự đa dạng tôn giáo tại Việt Nam diễn tiến tự do. Trong bối cảnh này, tình hình của các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng độc lập cần được xem như là một bài kiểm tra về lòng khoan dung của xã hội nói chung ;
(b) Điều 38 của Pháp lệnh hiện hành về tín ngưỡng, tôn giáo (Pháp lệnh 21), trong đó quy định về việc áp dụng của các điều ước quốc tế trên các quy định pháp luật trong nước nếu có mâu thuẫn, cần được thi hành với đầy đủ. Điều này đòi hỏi cải cách ở cả pháp luật và mức độ thi hành thực tế ;
(c) Các quy định pháp lý liên quan đến tự do tôn giáo hay tín ngưỡng nên được đưa vào phù hợp với Điều 18 của Công ước Quốc tế. Điều này bao gồm việc bảo vệ vô điều kiện phần nội tâm của tự do tôn giáo hay tín ngưỡng cũng như cách diễn giải chính xác của các điều khoản hạn chế liên quan đến biểu hiện tôn giáo ở khía cạnh xã hội ;
(d) Những diễn giải mơ hồ trong các quy định pháp lý được sử dụng để hạn chế quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền con người khác, chẳng hạn như những quy định trong điều 258 của Bộ luật Hình sự liên quan đến việc “lợi dụng” tự do, cần được loại bỏ và thay thế bằng định nghĩa pháp lý chính xác, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế ;
(e) Chính phủ cần làm rõ rằng việc đăng ký chính thức của các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng là một đề nghị chứ không phải là một yêu cầu pháp lý. Luật mới về tôn giáo nên đơn giản hóa các yêu cầu đăng ký cho các cộng đồng tôn giáo ;
(f) Ban Tôn giáo Chính phủ nên tư vấn cho Chính phủ về dự thảo luật về các tiêu chuẩn quốc tế nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Đào tạo pháp lý thích hợp và hướng dẫn để các nhà chức trách địa phương về những vấn đề này phải được cung cấp cho phù hợp ;
(g) Các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng, vì bất cứ lý do, không có hoặc không muốn có tình trạng đăng ký theo Pháp lệnh hiện hành 21 (hoặc pháp luật trong tương lai thay thế Pháp lệnh), nên có quyền tiếp cận hiệu quả với một dạng pháp nhân khác mà họ cần để thực hiện các chức năng cộng đồng quan trọng. Điều này đòi hỏi cần cải cách khuôn khổ luật về hội, như đang được thảo luận hiện nay ;
(h) Các hạn chế đối với các cộng đồng tôn giáo theo Pháp lệnh 21 kèm theo Nghị định 92 cần được nới lỏng đáng kể, phù hợp với, ngoài những nguyên tắc tương xứng, như đã được nêu trong Điều 18 của Công ước Quốc tế.
(i) Vấn đề truy đòi khắc phục pháp lý hiệu quả và có thể tiếp cận được phải được ưu tiên trong cải cách pháp luật hiện hành để cho phép các nạn nhân, người có quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng đã bị xâm phạm tìm kiếm cách khắc phục và bồi thường trong một hệ thống tư pháp và tòa án độc lập ;
(j) Các quan chức nhà nước và các nhà lãnh đạo tôn giáo nên kiềm chế không công khai tấn công các nhóm tôn giáo độc lập, kể cả thông qua các phương tiện truyền thông ;
(k) Nhà nước cần điều tra các cáo buộc về vi phạm tự do tôn giáo hay tín ngưỡng và các quyền con người khác ;
(l) Vấn đề đất đai liên quan đến các cộng đồng tôn giáo, trong đó có nghĩa trang, nơi thờ tự, cần được xử lý một cách công bằng và nhạy cảm. Cộng đồng và đại diện của họ nên có biện pháp truy đòi khắc phục pháp lý để khắc phục những quyết định coi là xâm phạm tự do tôn giáo, tín ngưỡng hay các quyền con người khác ;
(m) Chính phủ nên phát triển hơn nữa môi trường chung cho các cơ sở đào tạo tôn giáo. Việc lựa chọn các ứng cử viên và các vấn đề về chương trình nên hoàn toàn để cho các cộng đồng tôn giáo điều hành các tổ chức này ;
(n) Chính phủ cũng được khuyến khích tạo ra nhiều không gian hơn cho các trường phổ thông của các tôn giáo và giáo phái, ngoài cấp mẫu giáo ;
(o) Chính phủ cần tiếp tục cung cấp thông tin công bằng và chính xác về các tôn giáo và tín ngưỡng như là một phần của nền giáo dục. Thông tin cần phản ánh đúng nhận thức của các cộng đồng có liên quan về bản thân họ ;
(p) Các tù nhân nên được thực hiện quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, kể cả bằng cách sở hữu và sử dụng tài liệu tôn giáo hoặc các mục tôn giáo khác. Họ cũng cần được cung cấp các phương tiện để liên lạc với một nhân vật tôn giáo nếu họ mong muốn ;
(q) Ban Tôn giáo Chính phủ nên đóng một vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn và đào tạo thường xuyên cho chính quyền địa phương và các cán bộ công an về việc giải thích các quy định có liên quan phù hợp với chuẩn mực nhân quyền phổ quát ;
(r) Chính phủ nên loại bỏ những đơn vị an ninh đặc biệt, chẳng hạn như Đơn vị 41 / PA 38, mà dường như để thực hiện các chức năng gây tranh cãi, trái với mục đích bảo vệ quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng ;
(s) Báo cáo viên Đặc biệt muốn nhắc lại yêu cầu của ông mà Chính phủ đã xác nhận đảm bảo lại rằng không ai trong số những người mà ông đã gặp hoặc dự định gặp sẽ phải chịu bất kỳ hình thức trả đũa nào ;
(t) Báo cáo viên Đặc biệt, như là một phần của việc tiếp tục hợp tác với chính phủ, mong muốn cung cấp chuyên môn của mình trong việc rà soát dự thảo luật sắp tới từ quan điểm của các tiêu chuẩn quốc tế. Ông cũng muốn thực hiện một chuyến thăm tiếp theo cho Việt Nam trong tương lai gần để theo đuổi hợp tác với Chính phủ và đánh giá mức độ mà kiến nghị của ông đã được đưa vào xem xét và thực hiện.
5. Báo cáo viên Đặc biệt muốn thêm một số kiến nghị gửi tới cộng đồng quốc tế :
(a) Các tổ chức nhân quyền quốc tế nên chú ý một cách có hệ thống và báo cáo về tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam, bao gồm đặc biệt là tình hình của các thành viên của các cộng đồng tôn giáo không được công nhận ;
(b) Các tổ chức liên chính phủ đang làm việc với những người tị nạn từ Việt Nam nên đánh giá cáo buộc vi phạm tự do tôn giáo hay tín ngưỡng một cách cẩn thận trong quan điểm về các hạn chế và sự ngược đãi nghiêm trọng đang diễn ra, đặc biệt là của các cộng đồng tôn giáo độc lập ;
(c) Hội đồng Nhân quyền nên hành động dựa trên những cáo buộc đe dọa và trả thù chống lại những người đã hợp tác với những người có nhiệm vụ trong chuyến thăm của họ ;
(d) Các nhóm quốc gia Liên Hiệp Quốc nên xem xét việc hợp nhất các quan sát và khuyến nghị trong báo cáo này với những đánh giá chung về quốc gia/Khuôn khổ Hỗ trợ Phát triển của LHQ và giám sát việc thực thi các khuyến nghị, cùng với những kiến nghị được chấp nhận của các cơ quan công ước và kiểm điểm định kỳ phổ quát.
Ông Bielfeldt cũng kêu gọi một chuyến viếng thăm Việt Nam tiếp theo gần đây để xem xét các khuyến nghị có được thực thi hay không.
Sau khi Báo cáo viên Đặc biệt LHQ trình bày xong bản Phúc trình về chuyến đi Việt Nam hôm thứ ba 10.3.2015 trước Hội đồng Nhân quyền LHQ, Phái đoàn Hà Nội tại LHQ xin phát biểu. Hà Nội chối bỏ việc ngăn cản trong chuyến viếng thăm của Báo cáo viên Đặc biệt, phàn nàn Báo cáo viên đã tham chiếu những thông tin “sai lầm” về vi phạm tự do tôn giáo tại Việt Nam, và Báo cáo viên đặc biệt đã “thất bại trong việc miêu tả cân bằng toàn cảnh tình hình tôn giáo và tín ngưỡng tại Việt Nam”. Phái đoàn Hà Nội kết luận bằng sự chống đối bản phúc trình của ông Bielefeldt.
0 Comments
You can be the first one to leave a comment.