Kính bạch Hòa thượng Chủ tịch,
Kình bạch chư Tôn đức Tăng Ni lãnh đạo,
Kính thưa quý Đại biểu,

Ban Tổ chức nhờ tôi trình bày trước Đại hội tính chất hợp pháp và hợp lệ của Giáo chỉ số 9 của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9 vừa qua về việc thành lập Văn phòng II Viện Hóa Đạo trực thuộc Viện Hóa Đạo trong nước. Mục đích nhằm đối phó tình hình nguy biến như chúng ta vừa nghe Huấn từ của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ nhắn nhủ Đại hội.

Thoạt đầu trong tôi dấy lên ý nghĩ bất an khi nghe đề tài được giao phó. Tôi tự thấy đề tài này bất kính với Đức Tăng thống, với một Giáo chỉ. Bởi vì Giáo chỉ trong tôn giáo, giống như Sắc lệnh trong một quốc gia. Sắc lệnh ban ra, người công dân phải tuân thủ. Giáo chỉ ban hành thì chư Tăng Ni, Phật tử phải khâm tuân. Ngoại trừ khi người đọc không thống thuộc GHPGVNTN, hoặc tự thấy không còn là thành viên của GHPGVNTN.

Nhưng bình tĩnh lại, tôi thấy Ban Tổ chức không bất kính với Đức Tăng thống, mà đây là đề tài cần thiết phải nói ra. Bởi gần đây, trong dư luận có một số bài viết không những tỏ ra bất kính, hỗn láo với Đức Tăng thống, mà còn tiểu tâm để mạ lỵ lời lẽ và nội dung Giáo chỉ.

Chẳng hạn người ta nói rằng Giáo chỉ này đã được ngụy tạo, với chữ ký giả và con dấu giả. Thoạt đầu như thế. Rồi dần dà thấy đuối lý, người ta hạ nhiệt, để vờ hỏi sao Giáo chỉ không đóng con dấu Viện Tăng thống mà đóng bằng triện riêng ? Hoặc lời lẽ Giáo chỉ không phải của Đức Tăng thống. Cuối cùng, cơ tâm của họ hồ đồ vu cáo rằng Đức Tăng thống, Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo bị một số người bao vây làm cho hai ngài không thấy rõ sự thật nên viết ra những điều “sai lầm không những về mặt pháp lý mà còn về mặt hành chánh”“vi phạm Hiến Chương” cần “phải xử trí như thế nào đây” ? !

Sống giữa xã hội hiện đại về kỹ thuật như Hoa Kỳ, mà những người này suy nghĩ như kẻ đi bộ giữa rừng già Trường Sơn. Vì sao vậy ? Vì chỉ cần nhấc cái cellphone / mobile phone gọi về Bình Định, về Saigon là họ biết ngay Giáo chỉ giả hay thật ? Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ giả hay thật.

Câu hỏi sao không đóng con dấu Viện Tăng thống mà đóng triện riêng trên Giáo chỉ đủ chứng minh họ sống cách biệt với thực tại khủng bố tại Việt Nam đến 14 năm ánh sáng. Thưa rằng con dấu Viện Tăng thống đã bị nhà cầm quyền Cộng sản tịch thu tại Quảng Ngãi từ năm 1993. Nhà nước vẫn chưa trả lại, dù rằng các thứ trưởng Công an nườm nượp đến thăm Đức Tăng thống với biết bao mời mọc đường mật ! Cho nên các văn kiện từ thập niên 90 đến nay, Đức Tăng thống ấn ký bằng triện riêng của mình.

Thực tế là “người ta” rất sợ Giáo chỉ số 9, “người ta” rất sợ Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ. Vì rằng hai văn kiện này là cẩm nang cứu sống GHPGVNTN. GHPGVNTN mà được cứu sống là Pháp nạn được giải trừ. GHPGVNTN mà được cứu sống là Quốc nạn được giải trừ. Cho nên những người muốn cho Pháp nạn kéo dài, muốn cho Quốc nạn kéo dài, rất sợ Giáo chỉ số 9. Điều hiển nhiên một đứa con nít cũng biết, cũng hiểu rằng, bao lâu chưa có tự do tôn giáo, chưa có nhân quyền, chưa có dân chủ, nghĩa là bao lâu chế độ độc tài toàn trị còn chễm chệ trên đầu dân, thì Pháp nạn và Quốc nạn còn kéo dài. Pháp nạn và Quốc nạn còn kéo dài thì hai ngài Huyền Quang và Quảng Độ vẫn bị kéo dài thời gian quản chế.

Bây giờ quý Đại biểu hiểu rằng vì sao người ta tìm cách bôi nhọ và vu khống Giáo chỉ và Thông bạch. Nhưng có thể quý Đại biểu chưa hiểu vì sao, những người viết bài bôi nhọ và vu khống Giáo chỉ và Thông bạch kia luôn luôn tìm cách chứng minh rằng họ là người “của GHPGVNTN”, họ là “người chống độc tài Cộng sản”. Họ chống báng Giáo chỉ và Thông bạch là vì họ “muốn bảo vệ GHPGVNTN” (sic), và bảo vệ “lập trường chống Cộng của họ” !

Không phải vậy đâu. Có kẻ nào vào bếp ăn vụng mà thú nhận mình ăn vụng đâu. Có kẻ nào muốn đi đêm, muốn thỏa hiệp với chế độ độc tài Cộng sản mà công khai chuyện đó giữa một cộng đồng tị nạn Cộng sản đâu ? Cho nên, những chống chế kia chỉ cốt giữ vững nồi gạo của họ mà thôi. Làm sao sống được, làm sao làm ăn, làm sao xây chùa và phát triển tín đồ giữa cộng đồng tị nạn cộng sản, khi họ âm thầm đi đêm, khi họ âm thầm thỏa hiệp với chế độ Cộng sản ? ! Cho nên họ phải che giấu. Che giấu để làm ăn, để thùng Phước sương không rỗng.

Nhưng thưa quý Đại biểu, chúng tôi không chống việc họ thỏa hiệp với cộng sản, vì đó là quyền của họ trong một quốc gia tự do dân chủ. Nhưng chúng tôi chỉ xin họ minh bạch, cứ nói thật cho mọi người rõ. Đừng nấp sau sự thỏa hiệp mà bôi nhọ và vu khống Giáo chỉ và Thông bạch. Chúng tôi không trách họ lựa chọn con đường thỏa hiệp. Nhưng chúng tôi có quyền thống trách họ, vì trong cương vị chư Tăng và Phật tử mà làm như thế, là họ đang kéo dài những ngày quản chế của Đức Tăng thống tại Tu viện Nguyên Thiều, của Hòa thượng Thích Quảng Độ tại Thanh Minh Thiền viện. Làm như thế họ bán đứng GHPGVNTN, họ đồng lõa với khủng bố để đàn áp 20 Ban Đại diện và đày đọa những người đồng đạo của họ trong nước.

Ở thời đại mà một vị Phó tổng thống trước kia kêu gào Bắc tiến và sát Cộng, nhưng nay về làm ăn với nhà nước Cộng sản, thì tại sao những người Phật giáo kia không có quyền thỏa hiệp với nhà nước đàn áp Phật giáo ? Tuy nhiên xin quý vị cứ công khai hóa ý kiến chính trị của quý vị. Nhưng xin quý vị chấm dứt việc bôi nhọ và vu khống Giáo chỉ và Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ.

Trở lại câu hỏi : Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ của Hòa thượng Thích Quảng Độ có “sai lầm không những về mặt pháp lý mà còn về mặt hành chánh”, có “vi phạm Hiến Chương” như họ nói, họ viết không ?

Để minh bạch vấn đề, cho phép tôi hỏi quý Đại biểu : GHPGVNTN có là Giáo hội lịch sử và dân lập không ? Xin quý Đại biểu hoan hỉ trả lời. (toàn thể đại hội đã đồng thanh đáp lớn : Có !)

GHPGVNTN có là Giáo hội hợp pháp và hợp hiến không ? Xin quý Đại biểu hoan hỉ trả lời. (toàn thể đại hội đã đồng thanh đáp lớn : Có !)

Quý Đại biểu đã trả lời CÓ một cách đoan quyết. Vậy thì tôi tuyên bố Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ của Hòa thượng Thích Quảng Độ ban hành ngày 8.9 và 25.9 vừa qua là hợp pháp và hợp Hiến chương.

Hợp pháp, hợp lý và đúng với Hiến chương, vì hai văn kiện này đang cứu nguy nền Phật giáo dân tộc và Giáo hội chúng ta. Đây là vấn đề cơ bản và sinh tử. Hiến chương GHPGVNTN viết rằng :

“Quan niệm thống nhất của Phật Giáo Việt Nam để thực hiện theo chủ trương điểu hợp, nghĩa là giáo lý, giới luật và nếp sống của hai tông phái cũng như của hai giới Tăng sĩ và Cư sĩ chẳng những được tôn trọng mà còn phải nổ lực phát triển trong sự kết hợp có chỉ đạo. Chính đó là sắc thái đặc biệt của nền Phật Giáo thống nhất tại Việt Nam”.

Chư Đại Tăng và quý Đại biểu ngồi trong hội trường hôm nay đang là sự chứng minh hùng hồn nhất của sự “thực hiện theo chủ trương điểu hợp, nghĩa là giáo lý, giới luật và nếp sống của hai tông phái cũng như của hai giới Tăng sĩ và Cư sĩ chẳng những được tôn trọng mà còn phải nổ lực phát triển trong sự kết hợp có chỉ đạo”.

Chỉ nơi hội trường này mới có hai tông phái chính yếu làm nên nền Phật giáo Việt Nam là Bắc tông và Nam tông. Những nơi khác không có sự sum họp hòa vui như thế này. Có phải vậy không quý vị Đại biểu ? (toàn thể đại hội đã đồng thanh đáp lớn : Đúng !)

Chỉ nơi hội trường này mới có sự điều hợp hòa ái của hai giới Tăng sĩ và Cư sĩ làm nên nền Phật giáo thống nhất Việt Nam. Có phải vậy không quý vị Đại biểu ? (toàn thể đại hội đã đồng thanh đáp lớn : Đúng !)

Hai sự kiện tôi vừa nêu trên “chẳng những được tôn trọng mà còn phải nổ lực phát triển trong sự kết hợp có chỉ đạo”, như Hiến chương Phật giáo Việt Nam viết. Chỉ đạo nói đây chính là Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống và Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ của Hòa thượng Thích Quảng Độ.

Bây giờ, xin cho phép tôi được giải thích một đôi điều bị xuyên tạc. Chẳng hạn như hai chữ “giải tán” các Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trên các châu lục ; hoặc thành viên Văn phòng II Viện Hóa Đạo hoạt động “vô thời hạn” nghe có vẻ phi dân chủ.

Các xuyên tạc đại loại như vậy gây xôn xao dư luận đến nỗi có tờ báo dám cả gan viết rằng “Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất đã chính thức tan vỡ”“quy chụp nhiều chức sắc giáo phẩm cao cấp là “cơ hội,” làm “biến tướng Bát Chánh Đạo” và “làm nghiêng ngửa giáo hội”, và chính thức giải táncác cơ chế địa phương ở hải ngoại”.

GHPGVNTN “tan vỡ” hồi nào ? “Chính thức giải tán” các cơ chế địa phương ở hải ngoại hồi nào ? và ở đâu ? Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang có nói như thế không ?

Trong Giáo chỉ số 9 ban hành ngày 8.9.2007, Đức Tăng thống đưa ra 7 nhận định về vị trí và tình hình đạo Phật Việt Nam hai nghìn năm qua. Có hai nhận định ứng với hiện tình nguy biến của Phật giáo. Đó là nhận định thứ 3 và thứ 6. Nhân định thứ 3 viết rằng :

“Nhận định rằng vì nhiều lý do nội tại hay khách quan, vô tình hay cố ý, một số chư Tăng, Phật tử rời bỏ con đường cao rộng của Chánh pháp, đem thân phục vụ thế quyền làm biến tướng Bát chánh đạo và làm nghiêng ngửa Giáo hội”.

Và nhận định thứ 6 viết rằng :

“Nhận định rằng đồng thời với cuộc đàn áp trong nước nhằm tiêu diệt GHPGVNTN, một số phần tử cơ hội trong cộng đồng Phật giáo hải ngoại tiếp tay gây phân hóa, tạo ly gián, biến tướng chủ trương, đướng hướng sinh hoạt của GHPGVNTN Hải ngoại, âm mưu dập tắt tiếng nói của Giáo hội trên địa bàn quốc tế”.

Nhận định thứ 3 nhắm vào hiện tượng một số chư Tăng và Phật tử, vì lý do này hay lý do khác, tham gia vào Giáo hội Phật giáo của Nhà nước năm 1981. Ai chê nhận định này sai, xin giải thích, bình luận hay trưng bằng cớ.

Nhận định thứ 6 ám chỉ hiện tình Phật giáo ở hải ngoại với quá trình lũng đoạn 3 năm vừa qua. Nhận định này chỉ nêu lên hiện tượng một số phần tử cơ hội trong cộng đồng Phật giáo hải ngoại tiếp tay gây phân hóa, tạo ly gián, biến tướng chủ trương, đướng hướng sinh hoạt của GHPGVNTN Hải ngoại, âm mưu dập tắt tiếng nói của Giáo hội trên địa bàn quốc tế”.

Thực tế của câu viết một số phần tử cơ hội trong cộng đồng Phật giáo hải ngoại tiếp tay gây phân hóa, tạo ly gián, biến tướng chủ trương, đướng hướng sinh hoạt của GHPGVNTN Hải ngoại, âm mưu dập tắt tiếng nói của Giáo hội trên địa bàn quốc tế” là một thực tại. Chỉ những ai trong cuộc, có tham dự các Đại hội đồng Thường niên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ suốt ba năm qua mới chân nhận sự thật phũ phàng ấy. Các biên bản những Đại hội Thường niên còn lưu trữ tại Văn phòng Giáo hội làm bằng cho thực tại hiểm nguy này. Đặc biệt, người ngoài Giáo hội cũng có thể kiểm chứng nhận định thứ 6 ấy qua các bài viết đánh phá, mạ lỵ, vu khống trắng trợn trên hai Trang nhà Giao Điểm, Đông Dương Thời báo, qua các bài viết thường kỳ trên các báo An Ninh Thế giới, Công An Nhân Dân, Nhân Dân, Quân Đội Nhân dân, v.v… hoặc thông qua “Nhóm Phật giáo vì Dân tộc (Xô viết)”, “Nhóm Tăng Ni Hải ngoại”, v.v… hí lộng trên Internet.

Về hai chữ “giải tán” được một số người giải thích theo mục tiêu phản chống Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ. Nhóm người này tách 2 chữ ra khỏi toàn bộ tinh thần của Thông bạch Hướng dẫn 2771 chữ, thì họ vo tròn bóp méo cách nào lại chẳng được ? !

Điều 3 trong Thông bạch nói trên hàm ý “giải tán” cơ cấu hình thành từ Quyết định số 27 do Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo, tức Hòa thượng Thích Huyền Quang, ban hành ngày 10.12.1992, để chỉnh đốn theo Giáo chỉ số 9 do Đức Đệ tứ Tăng thống, tức Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, ban hành ngày 8.9.2007.

Như vậy thì giải tán không có nghĩa là dẹp bỏ, đình chỉ, giải thể, mà là chỉnh đốn nhân sự theo lập trường cố hữu của GHPGVNTN và thích ứng theo tình hình mới. Vì vậy nên mới có Điều 4 tiếp theo, giải thích cung cách chỉnh đốn :Chủ tịch và các thành viên Văn phòng II Viện Hóa Đạo cấp tốc triệu tập đại hội trong thời gian sớm nhất để thành lập Hội đồng Giáo phẩm và Hội đồng Điều hành GHPGVNTN-HN tại Hoa Kỳ theo tinh thần Giáo chỉ số 09/VTT/GC/TT của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007 và theo nội dung Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ số 09 của Đức Tăng Thống mang số 09/VHÐ/TB/VT do Viện trưởng Viện Hóa Đạo ký ngày 25.9.2007″.

Điều 5 trong Giáo chỉ số 9 viết rằng : “Văn phòng II Viện Hóa Đạo và các thành viên được thỉnh cử hoạt động vô thời hạn”. Thế là có số người nhao nhao phản đối, nại cớ để chống đối sự “vô lý” của một tập thể hoạt động “vô thời hạn”. Nại cớ để lấy cớ chống đối mà phá hoại. Không có cớ để nại, bọn họ cũng cứ tạo cớ ra. Tiên quyết là phải chống đối, phải vu khống. Thế nhưng gian mà không ngoan, do không chịu đọc hết văn kiện. Có đọc cũng không hiểu, vì ngọn lửa phá hoại thôi thúc bên trong. Sự thật như thế này :

Điều 5 ấn định như trên, song Điều 3 đã xác định : “Văn phòng II Viện Hóa Đạo trực thuộc sự chỉ đạo và điều hành của Viện trưởng Viện Hóa Đạo trong nước. Thành viên Văn phòng II Viện Hóa Đạo do Viện trưởng Viện Hóa Đạo thỉnh tuyển và chỉ định ; tùy theo nhu cầu, hoàn cảnh, các thành viên có thể được bổ sung, hoán chuyển hay thay đổi“. Rõ quá : “tùy theo nhu cầu, hoàn cảnh, các thành viên có thể được bổ sung, hoán chuyển hay thay đổi”.

Rõ hơn nữa, khi Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 viết ở Điều 9 :“Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành các GHPGVNTN-HN có nhiệm vụ thỉnh cử, bổ sung hay hoán chuyển nhân sự cho đầy đủ theo quy định của Hiến Chương Giáo Hội và trình về Viện Hóa Đạo duyệt xét và chuẩn nhận. Nếu Pháp nạn còn kéo dài, thì cứ 2 năm một lần cần xem xét lại toàn bộ nhân sự để bổ sung, hoán chuyển hoặc thay đổi theo đúng điều 3 Giáo Chỉ qui định“.

Cái vô thời hạn nằm trong một giới hạn : Điều 11 xác định tính thời gian Giáo chỉ số 9 áp dụng : “Giáo chỉ số 09/VTT/GC/TT của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007 để đối phó tình hình khẩn cấp, Giáo hội bị đàn áp khốc liệt, có hiệu lực cho đến khi hết Pháp nạn”.Vậy cần hiểu “vô thời hạn” trong nghĩa trung kiên theo lập trường dân tộc của Giáo hội. Còn cái giới hạn là tính tùy duyên linh động theo hoàn cảnh và khả năng. Tùy duyên nhưng bất biến.

Thành ra Văn phòng II Viện Hóa Đạo và thành viên Văn phòng này tuy “hoạt động vô thời hạn”. Nhưng nó không vĩnh viễn mà có giới hạn. Giới hạn gì ? – Giới hạn trong thời gian có Pháp nạn. Ngay trong thời gian này, nó cũng bị giới hạn thêm một lần nữa, như Điều 9 quy định : “Nếu Pháp nạn còn kéo dài, thì cứ 2 năm một lần cần xem xét lại toàn bộ nhân sự để bổ sung, hoán chuyển hoặc thay đổi theo đúng điều 3 Giáo Chỉ qui định”.

Cho nên giải thích một văn kiện, cần tôn trọng nội dung và tinh thần văn bản của người viết quy chiếu theo chủ đích và hoàn cảnh văn kiện ấy ra đời. Chứ không thể dựa theo chủ kiến để bóp méo sự thật, hay hư truyền (disinformation) để phá hoại.

Ban Tổ chức nhờ tôi trình bày trước Đại hội tính chất hợp pháp và hợp lệ của Giáo chỉ số 9 của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang và Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ. Tôi đã trình bày và bây giờ xin kết luận rằng : Chẳng những hai văn kiện nói trên hợp pháp, hợp lệ mà còn khế cơ. Bởi vì hai văn kiện này phát xuất từ nền Giáo lý Cứu Khổ và Trí tuệ của Phật giáo Việt Nam để khế cơ vào thời đại nhằm cứu nguy Phật giáo, cứu nguy Dân tộc, là điều mà chúng ta thường nói, thường vận dụng trong công tác Giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn. Theo đúng như Tuyên Cáo của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang công bố ngày 20.11.1993 và Lời Kêu gọi cho Dân chủ Việt Nam của Đại lão Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Thích Quảng Độ, công bố ngày 21.2.2001.

Đại hội Bất thường GHPGVNTNHN-HK, 10.11.2007
Chùa Bửu Môn, Port Arthur, Texas
Võ Văn Ái
 

0 Comments

You can be the first one to leave a comment.

Leave a Comment